I- ĐỊA LÝ HÀNH CHÍNH VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Việt Yên là một vùng đất cổ, xuất hiện trên bản đồ Tổ quốc từ khá sớm. Thời Hùng Vương – An Dương Vương, Việt Yên thuộc huyện Tây Vu, bộ Vũ Ninh của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc.
Thời Bắc thuộc, Việt Yên vẫn thuộc huyện Tây Vu, quận Giao Chỉ.
Thời Lý, sau chiến thắng quân Tống vào mùa Xuân năm 1077, chuển nhà thành hưng sô 1 một vùng đất ven tả ngạn sông Cầu đối diện với Như Nguyệt – Thị Cầu, Vạn Xuân được lập ra thành một đơn vị hành chính mới – huyện Yên Việt, thuộc phủ Bình Lỗ, lộ Bắc Giang.
Yên Việt cùng với phòng tuyến sông Như Nguyệt là những cái tên ghi lại trang sử oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống thế kỷ XI. Tên gọi Yên Việt tồn tại tới thế kỷ XIX.
Năm 1820, (năm Minh Mệnh thứ nhất), huyện Yên Việt đổi tên thành huyện Việt Yên.
Trải qua thời gian, địa giới hành chính huyện Việt Yên đã có nhiều thay đổi. Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, huyện Việt Yên có 5 tổng: Ngọ Xá, Đông Lỗ, Tiên Lát, Quang Biểu, Hương Tảo, chạy dài theo tả ngạn sông Cầu, huyện lỵ đặt ở Yên Viên (làng Vân) thuộc xã Vân Hà ngày nay.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, để phục vụ cho chính sách cai trị, chúng điều chỉnh lại đơn vị hành chính các địa phương, trong đó huyện Việt Yên có sự điều chỉnh khá lớn: Hai tổng Ngọ Xá, Đông Lỗ cắt về huyện Hiệp Hòa, tổng Hương Tảo cắt về huyện Yên Dũng, đồng thời Việt Yên nhận về 5 tổng của huyện Yên Dũng là: Mật Ninh, Dĩnh Sơn, Tự Lạn, Thiết Sơn, Hoàng Mai.
Sau khi điều chỉnh lại đơn vị hành chính, từ đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân rời huyện lỵ về Bích Động. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, huyện Việt Yên có 7 tổng: Quang Biểu, Tiên Lát, Mật Ninh, Dĩnh Sơn, Tự Lạn, Thiết Sơn, Hoàng Mai, gồm 67 xã. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xóa bỏ đơn vị hành chính tổng, thành lập đơn vị hành chính liên xã hoặc xã. Lúc này, từ 67 xã nay sáp nhập thành 22 xã với các tên gọi: Chấn Hưng, Cộng Hòa, Hồng Phong, Kính Ái, Hà Lạn, Phương Lạn, Cai Vàng, Mỏ Ngân, Nghĩa Hạ, Thiết Thượng, Chu Ngàn, Quang Tiến, Quang Trung, Khả Cao, Tăng Long, Thần Chúc, Tiên Sơn, Yên Hà, Tự Lạn, Thiện Mỹ, Ninh Sơn, Trung Sơn.
Trong kháng chiến chống Pháp, để phục vụ cho việc lãnh đạo, chỉ đạo được thuận tiện, Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu I đã hợp nhất các liên xã hoặc xã thành những xã lớn hơn: ba xã Chấn Hưng, Cộng Hòa, Vân Trung thành Hồng Phong; hai xã Hà Lạn, Phương Lạn thành xã Việt Tiến; hai xã Cai Vàng, Mỏ Ngân thành xã Minh Đức; hai xã Chu Ngàn, Quang Tiến thành xã Quang Châu; hai xã Tự Lạn, Thiện Mỹ thành xã Lan Đình; ba xã Ninh Sơn, Khả Cao, Quang Trung thành xã Quảng Minh; ba xã Yên Hà, Thần Chúc, Tiên Sơn thành xã Sơn Hà. Cuối năm 1950, xã Song Mai cắt từ huyện Lạng Giang nhập vào huyện Việt Yên.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, theo chủ trương của cấp trên, các xã lớn lại được chia thành các xã nhỏ hơn: xã Việt Tiến chia thành Việt Tiến, Hòa Tiến; xã Kính Ái chia thành Hồng Thái, Tăng Tiến; xã Hồng Phong chia thành Dân Tiến, Hòa Bình; xã Quảng Minh chia thành Quảng Minh, Ninh Sơn; xã Sơn Hà chia thành Vân Hà, Tiên Sơn; xã Lan Đình chia thành Thượng Lan, Tân Tiến.
Ngày 15 tháng 10 năm 1957, Bộ Nội vụ ra Thông tư số 5904 về việc đặt tên xã, xóm ở nông thôn. Căn cứ vào thông tư của Bộ Nội vụ, tên một số xã ở huyện Việt Yên đã được đổi lại. Năm 1968, xã Tân Tiến đổi thành xã Tự Lạn; xã Dân Tiến đổi thành xã Vân Trung. Năm 1973, xã Hòa Bình đổi thành xã Hoàng Ninh. Năm 1974, xã Hòa Tiến đổi thành xã Hương Mai.
Năm 1962, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị quyết sáp nhập hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm 1963, huyện Việt Yên thuộc tỉnh Hà Bắc.
Ngày 22 tháng 4 năm 1964, Bộ Nội vụ ra Quyết định số 127/NV cắt hai thôn Đa Mai và Thanh Mai thuộc xã Song Mai để thành lập tiểu khu Đa Mai trực thuộc thị xã Bắc Giang.
Ngày 3 tháng 5 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 130-HĐBT chuyển xã Song Mai của huyện Việt Yên nhập vào thị xã Bắc Giang.
Năm 1996, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất chia tỉnh Hà Bắc thành hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Bộ máy hành chính hai tỉnh hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1997. Từ đó đến nay, huyện Việt Yên thuộc tỉnh Bắc Giang.
Ngày 22 tháng 12 năm 1997, Chính phủ ra Nghị định số 116/1997/NĐ-CP thành lập thị trấn Bích Động.
Ngày 20 tháng 3 năm 2003, Chính phủ ra Nghị định số 16/2003/NĐ-CP thành lập thị trấn Nếnh.
Hiện tại, Việt Yên có 17 xã là: Bích Sơn, Hoàng Ninh, Hồng Thái, Hương Mai, Minh Đức, Nghĩa Trung, Ninh Sơn, Quang Châu, Quảng Minh, Tăng Tiến, Thượng Lan, Tiên Sơn, Trung Sơn, Tự Lạn, Vân Hà, Vân Trung, Việt Tiến và hai thị trấn: Bích Động và Nếnh.
Ngày 21/11/2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 813/NQ-UBTVQH14 về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019 – 2021 và sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Bắc Giang. Theo đó, xã Bích Sơn sáp nhập vào thị trấn Bích Động; xã Hoàng Ninh sáp nhập vào thị trấn Nếnh. Huyện Việt Yên có 2 thị trấn và 15 xã như hiện nay: Hồng Thái, Hương Mai, Minh Đức, Nghĩa Trung, Ninh Sơn, Quang Châu, Quảng Minh, Tăng Tiến, Thượng Lan, Tiên Sơn, Trung Sơn, Tự Lạn, Vân Hà, Vân Trung, Việt Tiến, thị trấn Bích Động và thị trấn Nếnh.
- Điều kiện tự nhiên
Việt Yên là huyện trung du miền núi, nằm giữa lưu vực sông Cầu và sông Thương, ở khoảng 21016’ – 21017’ vĩ độ Bắc; 106001’- 107007 độ kinh Đông; có diện tích 171,01 km2 (bằng 4,5% diện tích tỉnh Bắc Giang).
Phía Đông giáp huyện Yên Dũng và thành phố Bắc Giang;
Phía Tây giáp huyện Yên Phong (tỉnh Bắc Ninh) và huyện Hiệp Hòa.
Phía Nam giáp thành phố Bắc Ninh và huyện Quế Võ (tỉnh Bắc Ninh);
Phía Bắc giáp huyện Tân Yên;
Huyện ở vào vị trí thuận lợi, nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, trong tầm ảnh hưởng và phát triển của Thủ đô Hà Nội, gắn với hành lang phát triển kinh tế trên tuyến Quốc lộ 1 Hà Nội – ạng Sơn, là cửa ngõ giao thông của tỉnh, rất thuận lợi cho giao lưu, phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, thông thương hàng hóa, thu hút vốn đầu tư, là cơ hội để phát triển một nền kinh tế đa dạng, bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ – thương mại, nhất là phát triển công nghiệp. Đặc biệt, với hai trục kinh tế: Trục Bắc – Nam (dọc Quốc lộ 1A) đã và đang hình thành nhiều khu, cụm công nghiệp có quy mô lớn (từ khu công nghiệp Quang Châu đến khu công nghiệp Song Khê – Nội Hoàng) và trục kinh tế Đông Tây (dọc Quốc lộ 37 và đường vành đai 4 đang triển khai, nối từ khu công nghiệp Đình Trám đến Hiệp Hòa) đã đưa huyện Việt Yên trở thành khu vực phát triển năng động nhất tỉnh. Đây cũng là địa bàn rất quan trọng về an ninh – quốc phòng, cùng với các huyện của tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh tạo thành “phên giậu” bảo vệ kinh thành Thăng Long xưa – Thủ đô Hà Nội ngày nay.
Là nơi chuyển tiếp, vùng đệm giữa đồng bằng và miền núi, huyện Việt Yên có cảnh sắc thiên nhiên phong phú, tươi đẹp. Địa hình huyện Việt Yên không bằng phẳng, bao gồm cả đồng bằng và đồi núi xen kẽ, được chia thành hai vùng: Vùng phía Tây Bắc Tỉnh lộ 295B (Quốc lộ 1A cũ) có nhiều đồi núi, độ dốc trải dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam; vùng phía Đông Tỉnh lộ 295B có độ dốc lớn, hướng về hai phía Tăng Tiến, Hoàng Ninh và Quang Châu. Địa hình đồi núi chiếm 6% diện tích đất tự nhiên của huyện. Hầu hết các xã trong huyện đều có những khu đồi núi cao thấp xen kẽ như: núi Quảng Phúc (xã Nghĩa Trung), núi Mỏ Thổ (xã Minh Đức), núi Bài (xã Vân Trung), núi Con Voi (xã Trung Sơn), núi Tiên Lát (xã Tiên Sơn), núi Hiểu, núi Tam Tầng (xã Quang Châu). Địa hình đa dạng với với ba dạng chính (địa hình đồi núi thấp, địa hình bồn địa gò thấp và địa hình vùng đồng bằng có lượn sóng) tạo điều kiện thuận lợi để Việt Yên phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, phong phú, tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
Huyện Việt Yên có các loại tài nguyên: tài nguyên đất, nguồn nước mặt và tài nguyên rừng. Dựa trên kết quả điều tra thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện có các nhóm đất chính: đất phù sa, đất xám bạc màu, đất feralit đỏ vàng…, thích hợp với nhiều loại cây trồng. Toàn huyện có 932,62ha rừng, trong đó có 343ha rừng phòng hộ. Việt Yên có sông Cầu bắt nguồn từ Bắc Kạn chảy qua Bắc Giang, trong đó có 22km chảy qua địa bàn huyện. Sông Cầu đóng vai trò quan trọng về giao thông, thủy lợi và quân sự. Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống thế kỷ XI, Lý Thường Kiệt đã xây dựng phòng tuyến dọc bờ sông Cầu để ngăn quân Tống, bảo vệ kinh thành Thăng Long. Cùng với sông Cầu, sông Thương, ngòi Cầu Sim và trên 1.100ha mặt nước ao, hồ nhỏ rải rác đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân trong huyện.
Việt Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, một năm chia thành bốn mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 230C, lượng mưa bình quân hằng năm là 1.504mm. Hướng gió chính là gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, còn lại các tháng trong năm là gió Nam, gió Tây Nam và gió Đông Nam. Đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm vào mùa hè và lạnh khô vào mùa đông là một trong những thuận lợi để địa phương phát triển một nền nông nghiệp đa dạng với các loại cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới, Á nhiệt đới và ôn đới, đặc biệt là các cây trồng cho giá trị sản phẩm, kinh tế cao như rau cao cấp, cây màu, cây vụ đông các loại. Với những đặc điểm về địa hình, khí hậu, thời tiết, đất đai như trên, Việt Yên có điều kiện thuận lợi để phát triển một nền sản xuất nông – lâm nghiệp đa dạng, bền vững theo hướng tập trung sản xuất với quy mô lớn, chuyên canh (sản xuất lương thực, thực phẩm sạch, cây công nghiệp ngắn ngày…), làm cơ sở cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- DÂN CƯ VÀ TRUYỀN THỐNG
- Dân cư
Quá trình hình thành địa dư hành chính như trên cho thấy Việt Yên là một trong những huyện có lịch sử tồn tại và phát triển lâu đời của vùng văn hóa Kinh Bắc xưa. Từ các di chỉ khảo cổ học và những dấu tích còn lại, có thể thấy, ngay từ thời đại các vua Hùng, trên vùng đất Việt Yên ngày nay đã có người Việt cổ sinh sống. Trải qua bao thế kỷ khai phá và cải tạo, những cư dân đầu tiên ở Việt Yên đã dựng xây các cánh đồng màu mỡ dọc lưu vực sông Cầu để cấy lúa, trồng hoa màu và các loại cây ăn quả, săn bắt thú rừng, đánh cá, lập làng… Một trong những dòng họ có lịch sử cư trú lâu đời nhất, phạm vi rộng lớn nhất phải kể đến là họ Thân. Dòng họ này đã nổi danh với ba phò mã Thân Thiêu Thái, Thân Cảnh Nguyên, Thân Cảnh Phúc (thời Lý), các Tiến sĩ, Thám hoa Thân Nhân Trung, Thân Nhân Vũ, Thân Nhân Tín, Thân Cảnh Vân (thời Lê)…
Bên cạnh những cư dân Việt cổ đã sống lâu đời, mảnh đất Việt Yên còn đón nhận nhiều luồng cư dân đến sinh cơ lập nghiệp. Thời Bắc thuộc, một bộ phận người Hán đã về đây sinh sống. Thời Lê sơ, sau cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược thắng lợi, một số tù binh, dân binh phương Bắc ở lại nước ta, trong đó có Việt Yên. Ở thôn Trung Đồng (xã Vân Trung) có nhiều cư dân họ Hoắc. Họ chính là hậu duệ của các tù binh, dân binh phương Bắc tự nguyện ở lại nước ta từ những năm đầu thế kỷ XV. Cuối thế kỷ XIX, sau khởi nghĩa nông dân chống nhà Nguyễn thất bại, nghĩa binh ở một số tỉnh Hưng Yên, Thái Bình, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định đã dạt lên vùng đất Việt Yên. Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp chiêu mộ nhân dân nhiều nơi lên xây dựng đường sắt, xây dựng hệ thống sông máng nổi từ Thác Huống (huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên) qua một số xã thuộc địa bàn huyện Việt Yên, hoặc lên khai hoang, làm tá điền phục vụ các đồn điền. Trong thời gian này, nhân dân nhiều nơi đã quần tụ về đây như địa bàn thôn Kim Sơn (xã Tiên Sơn)…
Năm 1963, thực hiện chính sách khai hoang của Đảng và Chính phủ, nhân dân các tỉnh Hải Dương, Nam Định, Thái Bình… đến các xã Minh Đức, Thượng Lan, Nghĩa Trung khai hoang, lập nghiệp.
Song song với việc đón nhận các luồng dân cư, dân số Việt Yên không ngừng tăng lên theo thời gian. Năm 1936, huyện Việt Yên có khoảng 44.090 người; cuối năm 1954 tăng lên 57.965 người và đến cuối năm 2019, dân số Việt Yên là 228.462 người, trong đó, tổng số lao động trong độ tuổi của huyện là 105.844 người, số lao động có việc làm thường xuyên là 96.568 người (chiếm 91,2%). Hiện nay, cơ cấu lao động của huyện đang có sự chuyển dịch tích cực. Lao động ngành nông nghiệp có xu hướng giảm, lao động trong các ngành công nghiệp – xây dựng cơ bản và thương mại – dịch vụ có xu hướng tăng lên (lao động ngành nông – lâm nghiệp – thủy sản đạt 12%; lao động ngành công nghiệp – xây dựng cơ bản đạt 66%; lao động ngành thương mại – dịch vụ đạt 22%). Trên địa bàn huyện có 8 dân tộc cùng sinh sống, trong đó, dân tộc Kinh là chủ yếu.
Thời gian và sự thay đổi địa giới hành chính đã làm cho diện mạo của huyện Việt Yên có những thay đổi nhưng vùng đất này vẫn mang đậm nét văn hiến, địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Đời nối đời, với tinh thần đoàn kết, sức lao động cần cù, bền bỉ và sáng tạo, nhân dân Việt Yên đã mở rộng địa vực cư trú, thuần dưỡng đất đai, xây dựng quê hương ngày một đông đúc, phong đăng, phồn thịnh, góp phần tô thắm thêm truyền thống tỉnh Bắc Giang – trung tâm kinh tế lớn thứ hai của vùng Trung du và miền núi phía Bắc.
- Truyền thống, văn hiến:
Trong vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, Bắc Ninh – Bắc Giang – tức trấn Kinh Bắc xưa, trong đó bao gồm địa bàn huyện Việt Yên ngày nay hợp thành một tiểu vùng văn hóa, được xác định bằng khái niệm “nền văn hiến Kinh Bắc”, “văn hóa miền Kinh Bắc”, “văn hóa xứ Bắc” với những giá trị riêng biệt, độc đáo, đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành và phát triển của nền văn hóa Việt Nam. Cùng với toàn tỉnh Bắc Giang và vùng Kinh Bắc, Việt Yên có vị trí địa lý và vị thế lịch sử riêng, là cái nôi sinh thành văn hóa tộc người Việt, nơi diễn ra các cuộc đấu tranh chống xâm lược và đồng hóa của phong kiến phương Bắc, đồng thời, là trung tâm diễn ra sớm nhất và liên tục các cuộc giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa nước ta với các nước trong khu vực, nhất là với Trung Quốc, Ấn Độ và vùng Trung Á. Chính bởi vị thế và đặc điểm lịch sử đặc biệt đó nên từ xa xưa, vùng đất Việt Yên đã trở thành một trong những vùng đất tiêu biểu, đặc trưng của nền văn hiến dân tộc với những sắc thái riêng độc đáo, được phản ánh trong cá tính, trong truyền thống của con người vùng đất này: nhân hậu, thủy chung, nghĩa tình trong quan hệ ứng xử “tứ hải giao tình”, đoàn kết, giàu lòng yêu nước và tinh thần cách mạng, cần cù, khéo léo trong làm ăn buôn bán, hiếu học, đam mê sáng tạo văn hóa nghệ thuật. Truyền thống, phong tục của người Việt Yên “Nếu nói một cách khái quát thì về phong tục tuy quê mùa, chất phác, nhưng hiên về có trước, có sau, ít sự điên đảo, suy tệ. Xưa có câu nói về phong thổ đất Bắc Ninh như sau: Đất Bắc Ninh là đất bậc trung với khí tinh anh tốt đẹp, sĩ phu phần nhiều ngay thẳng, trung thực…”. Đất Bắc Ninh trong Bắc Ninh dư địa chí của Đỗ Trọng Vỹ ấy chính là trấn Kinh Bắc thời Lê, tỉnh Bắc Ninh thời Nguyễn, tỉnh Bắc Ninh – Bắc Giang ngày nay, trong đó bao gồm vùng đất Việt Yên.
2.1. Vùng đất ngời sáng truyền thống đấu tranh yêu nước
Việt Yên nằm ở vị trí trung tâm trên con đường chiến lược của tỉnh Bắc Giang nối Lạng Sơn với Bắc Ninh và Thủ đô Hà Nội, vùng đất được xem như “phên giậu”, cửa ải phía Đông Bắc Tổ quốc, lại có sông Cầu là tuyến giao thông đường thủy huyết mạch cắt ngang địa hình, phân cách với tỉnh Bắc Ninh, nơi nối liền vùng hạ các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng với Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên nên thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các cuộc chiến tranh xâm lược. Vì lẽ đó, nhân dân Việt Yên sớm hun đúc tinh thần quả cảm, xả thân vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp bảo vệ quê hương, đất nước. Đó chính là truyền thống thượng võ của người dân Việt Yên. Truyền thuyết về Thạch tướng quân (người Tiên Lát) – vị tướng lập chiến công lẫy lừng giúp vua Hùng Vương thứ 16 đánh thắng giặc Man Khấu xâm lược nước Văn Lang được lưu truyền phổ biến trong suốt chiều dài lịch sử minh chứng cho lòng yêu nước, ý thức tự cường dân tộc của nhân dân Việt Yên được hun đúc, hình thành và bền bỉ ăn sâu trong đời sống tâm hồn con người ngay từ những buổi đầu dựng nước. Trong suốt hàng nghìn năm chống phong kiến phương Bắc, Việt Yên là nơi diễn ra nhiều trận đánh thắng lớn của quân và dân ta chống kẻ thù xâm lược: Phòng tuyến sông Cầu của Lý Thường Kiệt đã nhấn chìm mộng tưởng xâm lược của nhà Tống; núi Tam Tầng là nơi diễn ra những trận quyết chiến giữa quân dân nhà Trần với quân Nguyên – Mông, giữa nghĩa quân Tây Sơn với quân Thanh… Những địa danh ấy đã làm cho kẻ thù khiếp sợ mỗi khi nhắc tới. Giữa thế kỷ XVIII, khi lực lượng thổ phỉ Ngô Côn, Lý Dương Tài từ Trung Quốc tràn sang cướp bóc, nhân dân Việt Yên hăng hái tham gia vào đội quân chống trả quyết liệt. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phát huy truyền thống yêu nước, nhiều người con của quê hương Việt Yên đã đứng lên tổ chức lực lượng chống lại quân xâm lược. Những năm 1883 – 1884, ông Bá Cơ, ông Cai Lựu là người Nghĩa Trung dấy binh chống Pháp đã lập căn cứ ở núi Ao Trời. Trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế, nhiều người con của quê hương Việt Yên đã tham gia dưới cờ khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế như bà Đặng Thị Nho (bà Ba Cẩn), Cai Ba Nhái (người làng Đồn Lương, Bích Sơn)… Việt Yên là một trong những nơi hoạt động của nghĩa quân. Ngày 19/12/1892 (tức ngày 1 tháng 11 năm Nhâm Thìn), tại đình Đông (thị trấn Bích Động), Đề Thám cùng Bá Phức, Thống Luận, Thống Ngò cùng với 400 nghĩa quân đã chính thức làm lễ tế cờ, nhận chức chỉ huy khởi nghĩa Yên Thế thay Đề Nắm.
Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh, với truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, tự lực tự cường, dũng cảm, bất khuất trước mọi thử thách của thiên nhiên và sự tàn bạo của kẻ thù, nhân dân Việt Yên cùng nhân dân cả nước đã viết nên những trang sử vẻ vang trong quá trình dựng nước và giữ nước. Từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo, truyền thống đó được phát huy thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Thấu hiểu sâu sắc chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Việt Yên đã quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ, cùng nhân dân cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Giang, Đảng bộ huyện Việt Yên lãnh đạo nhân dân tích cực tham gia xây dựng, củng cố chính quyền, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chuẩn bị mọi mặt cần thiết cho cuộc kháng chiến. Từ năm 1950 đến năm 1954, nhân dân Việt Yên cùng với các lực lượng bộ đội địa phương chiến đấu ngoan cường, tích cực chống lại các cuộc càn quét, chiếm đóng của địch; đồng thời, bảo vệ vùng giải phóng, khu du kích, đẩy mạnh đấu tranh với địch ở vùng tạm chiếm, liên tục tấn công, bao vây, bức hàng, bức rút hàng trăm đồn bốt địch, đẩy lùi nhiều trận càn lớn của địch, tiêu diệt hàng nghìn tên địch.
Những đóng góp của quân – dân Việt Yên đã góp phần cùng quân – dân cả nước kháng chiến chống Pháp thắng lợi, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nêu cao quyết tâm “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân – dân Việt Yên tích cực xây dựng hậu phương vững mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, dốc sức chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến.
Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, khi chiến tranh biên giới phía Bắc và chiến tranh biên giới phía Tây Nam nổ ra, Đảng bộ, nhân dân huyện Việt Yên tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, xây dựng phòng tuyến biên giới, trong đó có phòng tuyến sông Cầu, chi viện sức người cho tiền tuyến.
Trải qua các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, toàn huyện có 2.187 liệt sĩ; hàng nghìn thương, bệnh binh, quân nhân và thanh niên xung phong; nhiều người nhiễm chất độc da cam. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Đảng bộ và nhân dân Việt Yên hàng trăm Huân, Huy chương các loại; 4 đồng chí được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (Anh hùng Nguyễn Văn Ty, Nguyễn Văn Cốc, Chu Văn Mùi, Nguyễn Vũ Tráng); 2 đồng chí được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động; 137 bà mẹ được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đặc biệt, ngày 11/6/1999, Đảng và Nhà nước đã phong tặng nhân dân và lực lượng vũ trang huyện Việt Yên danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Cho đến nay, 3 xã trong huyện đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (Quang Châu, Tự Lạn, Việt Tiến).
Phát huy chủ nghĩa anh hùng trong chiến tranh, tự hào với những thành tích trong chiến đấu, sản xuất và những đóng góp xứng đáng cho các cuộc chiến tranh vệ quốc của đất nước; vinh dự với những phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước đã trao tặng, trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân huyện quyết tâm phấn đấu, tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Việt Yên ngày một văn minh, giàu đẹp.
2.1. Vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống khoa bảng
Bản sắc văn hóa đất Việt Yên còn được thể hiện đậm nét ở truyền thống hiếu học và đỗ đạt. Vùng đất này là nơi sản sinh nhiều con người tài đức, hết lòng phụng sự quê hương, đất nước; nơi ẩn chứa và phát tích tinh hoa của nhiều thế hệ. Ở thời nào, đạo học cũng được người Việt Yên coi trọng, nâng niu và tiếp nối.
Trải qua 844 năm khoa cử của các triều đại phong kiến (1075 – 1919), huyện Việt Yên có 18 người đỗ Tiến sĩ (chiếm gần 1/3 số Tiến sĩ của cả tỉnh Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang có 66 người). Truyền thống cử nghiệp của Việt Yên được nhiều sử sách nhắc tới bởi mảnh đất này đã đóng góp nhiều nhân tài cho đất nước. Tiêu biểu như: Thân Nhân Trung, Nguyễn Phượng Sồ, Hoàng Công Phụ, Trần Đăng Tuyển, Thân Cảnh Vân… Người đỗ đạt tam khôi có Thân Cảnh Vân đỗ Thám Hoa. Làng quê có nhiều người đăng khoa nhất là làng Yên Ninh (thị trấn Nếnh) với 10 vị kế tiếp đỗ đạt dưới hai triều Lê – Mạc. Truyền thống hiếu học và học giỏi chính là ở sự liên tục này. Trong gần hai thế kỉ, dưới triều đại nào, ở giai đoạn nào cũng đều có người của làng Yên Ninh. Người khai khoa cho truyền thống hiếu học, khoa bảng huyện Việt Yên là Thân Nhân Trung. Ông đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469). Thân Nhân Trung là danh sĩ nổi tiếng được vua Lê Thánh Tông đánh giá cao về tài đức và được người đương thời tôn vinh là bậc “Danh nho trùm đời”. Ông làm quan dưới triều Lê Thánh Tông đến chức Đông Các Đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu, Lại bộ thượng thư, nhập nội phụ chính, là Phó nguyên soái Hội Tao Đàn (vua Lê Thánh Tông là Nguyên soái). Kế sau ông có 9 người đỗ Đại khoa, trong đó có 2 con trai (Thân Nhân Tích, Thân Nhân Vũ) và người cháu nội của ông là Thân Cảnh Vân đỗ Thám Hoa khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 28 (1487). Sau đó, cả bốn cha con ông cháu ra làm quan đồng triều. Khi con trai Thân Nhân Trung là Thân Nhân Tích và người cháu là Thân Cảnh Vân đỗ Đại khoa, vua Lê Thánh Tông đã ca ngợi họ Thân rằng:
“Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
Nhị Thân phụ tử mộc ân vinh”.
Dịch nghĩa:
“Mười anh em nhà họ Trịnh nối nhau quý hiển
Hai cha con nhà họ Thân tắm gội ơn vinh”.
Trong lịch sử bang giao của nước ta có nhiều người được tôn vinh là nhà ngoại giao đại tài, mang lại lợi ích lớn lao và làm rạng danh cho trí tuệ dân tộc. Huyện Việt Yên có Lộc Quận công Hoàng Công Phụ (người làng Yên Ninh) từng đi sứ nhà Thanh; Nguyễn Đức Vinh (làng Phúc Tằng) cũng từng đi sứ nhà Thanh, qua đấu tranh ngoại giao đã hoàn thành sứ mệnh và thể hiện được trí tuệ người Việt với ý chí kiên cường bảo vệ nền độc lập, tự chủ, khẳng định tinh hoa văn hóa của miền quê thượng xứ Bắc.
Người Việt Yên không chỉ giỏi về khoa cử mà còn giỏi về võ nghiệp. Nhiều danh tướng, võ quan đã có công lao to lớn, đóng góp cho đất nước như Hán Quận công Thân Công Tài, Quận công Dương Quốc Cơ…
Năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442), tại bài Văn bia Tiến sĩ đề danh ở Quốc Tử Giám, Hàn Lâm viện thừa chỉ Thân Nhân Trung có viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh dựng nước chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sĩ, bồi dưỡng nhân tài, vun trồng nguyên khí làm công việc cần kíp. Bởi vì, kẻ sĩ có quan hệ trọng đại với quốc gia như thế, cho nên được quý chuộng không biết dường nào…”. Truyền thống ấy đã và đang được các thế hệ người dân Việt Yên hôm nay gìn giữ, phát huy vững bền.
Kế tục và phát huy truyền thống văn hóa quý báu của cha ông, Đảng bộ và nhân dân huyện Việt Yên ngày nay luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh thần quan trọng cho sự phát triển ngày một giàu mạnh của quê hương, đất nước. Song song với nhiệm vụ đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng bộ và nhân dân huyện Việt Yên luôn quan tâm đặc biệt đến phát triển văn hóa, giáo dục. Hệ thống trường học được quy hoạch, sắp xếp hợp lý, ngày càng mở rộng. Huyện tích cực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất theo hướng chuẩn Quốc gia, đáp ứng được yêu cầu giảng dạy theo chuẩn mới. 17/17 xã, thị trấn của huyện được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2. Việt Yên là huyện luôn dẫn đầu toàn tỉnh về chất lượng thi đầu vào lớp 10. Kết quả dự thi học sinh giỏi cấp Tỉnh, cấp Quốc gia ngày càng cao. Số học sinh thi đỗ vào trường trung học phổ thông chuyên của tỉnh, các trường trung học phổ thông, cao đẳng, đại học và trung cấp chuyên nghiệp đạt tỉ lệ cao. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Cùng với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, giáo viên các thế hệ còn có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ những nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã nghỉ hưu, đặc biệt là Hội Cựu giáo chức, Hội Khuyến học huyện và Hội Khuyến học các xã, thị trấn, dòng họ. Với tâm huyết của mình, họ đã góp phần xây dựng nên một xã hội học tập, huy động được sự chung tay, góp sức của nhân dân đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo của quê hương. Nhờ vậy, huyện ngày càng có nhiều người có trình độ học vấn cao, đã và đang giữ những chức vụ quan trọng trong nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội, khoa học, nghệ thuật, quân sự… Nhiều nhà thơ, nhà văn nổi danh là người đất này như nhà thơ Hoàng Cầm, nhà văn Đỗ Chu, nhà thơ Trần Ninh Hồ…
Trong thời gian tới, huyện Việt Yên quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa phong trào học tập, phát huy tối đa truyền thống hiếu học của quê hương, lấy đó là gốc rễ cho mọi sự phát triển. Với truyền thống hiếu học quý báu, Đảng bộ và nhân dân huyện Việt Yên phấn đấu hết mình đưa Việt Yên trở thành một điểm sáng trên bản đồ giáo dục của tỉnh Bắc Giang nói riêng và cả nước nói chung.
2.3. Vùng đất có nhiều ngành, nghề truyền thống
Vùng đất Việt Yên cách đây hàng nghìn năm đã là miền đất màu mỡ, thuận lợi, thu hút mọi người đến sinh sống, làm ăn, buôn bán. Cư dân Việt Yên có truyền thống canh tác lúa nước. Định thức “Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền” được nhân dân áp dụng từ nghìn đời. Cư trú trong các xóm làng bên dòng sông Cầu huyền thoại và lịch sử, nhân dân Việt Yên sớm phát triển nghề đánh bắt cá. Làng Yên Ninh xưa có nghề thả lưới quăng chài nổi tiếng. Nghề làm vườn nổi tiếng với rau cải Quang Biểu, rau cần Nam Ngạn, Thần Chúc, cây ăn quả Tiên Lát, Trung Sơn… Nghề trồng dâu nuôi tằm cũng có từ lâu đời ở Quang Biểu, Hoàng Mai, Mật Ninh, Thiết Sơn, Tiên Lát, nay vẫn được duy trì ở Vân Hà, Quang Châu, Tiên Sơn. Ngoài sản xuất nông nghiệp, một số làng còn có các ngành, nghề truyền thống như: nghề làm gốm Thổ Hà; nghề nấu rượu làng Vân (Yên Viên); nghề đan lát tre nứa ở Phúc Long, Phúc Tằng; nghề rèn (thợ rào) ở Ninh Khánh; nghề làm bún ở Phúc Lâm, Nội Ninh; tráng bánh đa nem ở Thổ Hà; ươm tơ, dệt lụa Mật Ninh; nghề làm đậu phụ ở làng Đạo Ngạn… Trong các làng nghề nổi tiếng của huyện Việt Yên ngay từ thời Lý phải kể đến làng gốm Thổ Hà. Nhiều nghiên cứu cho rằng nghề gốm làng Thổ Hà xuất hiện cùng thời gian với làng nghề gốm Bát Tràng (Gia Lâm – Hà Nội), làng gốm Phù Lãng (Quế Võ – Bắc Ninh). Nghề làm gốm Thổ Hà phát triển từ đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân. Nghề nấu rượu lâu đời ở Vạn Vân cũng được nhiều nơi biết đến, tạo nên nét đẹp của cặp đôi Vạn Vân – Thổ Hà:
“Vạn Vân có bến Thổ Hà
Vạn Vân nấu rượu, Thổ Hà nung vôi”.
Toàn huyện hiện có 6 làng được công nhận làng nghề truyền thống (Phúc Long, Chùa, Chằm, Bảy – xã Tăng Tiến; Yên Viên, Thổ Hà – xã Vân Hà) và 1 làng được công nhận làng nghề (thôn Nguyệt Đức – xã Vân Hà). Các nghề thủ công phát triển giúp cho người dân có một cuộc sống ổn định và chất lượng cuộc sống cao hơn những làng nông nghiệp. Sự phát triển của các ngành, nghề cổ truyền kéo theo sự lớn mạnh trong nhu cầu trao đổi, buôn bán hàng hóa, từ đó, guồng máy thương mại được thúc đẩy. Hoạt động buôn bán, giao thương sầm uất ngay từ thế kỉ XVII đã trở thành một loại hình kinh tế phổ biến. Chợ xuất hiện từ rất sớm với những tên cổ đến nay vẫn còn tồn tại như: chợ Thổ Hà, chợ Vân (xã Vân Hà), chợ Nhẫm (xã Trung Sơn), chợ Bích Động (thị trấn Bích Động), chợ Nếnh (thị trấn Nếnh), chợ Lai (xã Nghĩa Trung)… Trong đó, chợ Thổ Hà được liệt vào loại lớn nhất trấn Kinh Bắc thời Lê (theo sách Đại Nam nhất thống chí).Chợ không chỉ là nơi giao lưu, buôn bán, trao đổi hàng hóa mà còn là trung tâm sinh hoạt vănhóa mang đậm bản sắc văn hóa Việt.
2.4. Bản sắc văn hóa đất Việt Yên
Việt Yên là một vùng đất cổ, có bề dày lịch sử – văn hóa lâu đời. Mảnh đất này in dấu rất nhiều kì tích chiến đấu, lao động sản xuất và sáng tạo văn hóa của nhân dân. Việt Yên cũng là nơi sinh sống của 8 dân tộc anh em. Những đặc điểm địa lý – nhân văn chủ đạo này chính là cơ sở để nhân dân Việt Yên trong trường kỳ gian lao dựng nước và giữ nước cùng dân tộc đã sáng tạo, gìn giữ một kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú, đặc sắc. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, cùng với sự thịnh suy của đất nước, nhân dân Việt Yên đã kiên cường đứng lên chống đồng hóa văn hóa dân tộc trong gần 1.000 năm chịu ách đô hộ và sự đồng hóa của các vương triều phong kiến và văn hóa phương Bắc, rắn rỏi giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc được xây dựng từ những buổi đầu dựng nước cũng như giai đoạn độc lập, tự chủ, xây dựng và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. Nằm trong trấn Kinh Bắc xưa, Bắc Giang, trong đó có Việt Yên được đánh giá “là trung tâm, là nơi quá trình giải thể, đan xen và chống đan xen văn hóa diễn ra mạnh nhất, cũng là cái mốc rèn luyện cá tính Việt Nam mạnh nhất”. Các giá trị văn hóa truyền thống huyện Việt Yên nằm trong những di tích lịch sử – văn hóa, ca dao, dân ca, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội…, và đều được phản ánh đậm nét thông qua văn hóa làng. Những ngôi làng cổ chính là nơi nảy sinh, phát triển và bảo lưu truyền thống văn hóa của nhân dân Việt Yên. Trên địa bàn huyện Việt Yên hiện có hai hình thức sinh hoạt tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Phật giáo du nhập vào Việt Yên từ khá sớm với trung tâm là chùa Bổ Đà. Hầu hết các làng trên địa bàn huyện đều có chùa, trong đó có nhiều chùa có niên đại từ 300 năm như chùa Sen Hồ, chùa Bãi…, cùng nhiều đình, đền, nghè, miếu.
Thiên Chúa giáo có mặt ở Việt Yên từ khoảng những năm 30 đến đầu những năm 50 của thế kỷ XX, tập trung ở các làng Nghĩa Thượng, Núi Hiểu, Sen Hồ, Thiết Nham, Nghi Thiết, Hoàng Mai. Tinh thần “Kính Chúa yêu nước”, sống “tốt đời đẹp đạo”, đoàn kết lương – giáo luôn luôn được đặt lên hàng đầu. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bà con giáo dân luôn sát cánh bên Đảng và chính quyền chống lại sự áp bức, bóc lột của kẻ thù, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, tinh thần đoàn kết tôn giáo ở Việt Yên ngày càng lên cao, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tôn giáo, góp phần to lớn xây dựng quê hương Việt Yên ngày càng giàu đẹp.
Một trong những giá trị văn hóa vật thể tiêu biểu của huyện Việt Yên là những di tích lịch sử – văn hóa như đình, đền, chùa, miếu… gắn liền với tôn giáo, tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền của nhân dân địa phương. Nhiều di sản không chỉ gắn liền với các sự kiện lịch sử mà còn là những di sản văn hóa vô giá, kết tinh hàng nghìn năm nét tinh hoa văn hóa xứ Kinh Bắc – Bắc Giang. Những công trình kiến trúc này phần nào phản ánh sức sáng tạo và đôi bàn tay tài hoa, khéo léo của con người Việt Yên nói riêng và người Kinh Bắc nói chung. Toàn huyện hiện có 341 di tích lịch sử – văn hóa, kiến trúc đặc sắc, trong đó có 95 di tích đã được các cấp xếp hạng, bao gồm 2 di tích cấp Quốc gia đặc biệt (đình Đông – khu Đông – thị trấn Bích Động; chùa Bổ Đà – thôn Thượng Lát – xã Tiên Sơn), 19 di tích cấp Quốc gia, 74 di tích cấp Tỉnh, 1 bảo vật Quốc gia (bộ Mộc bản Kinh Phật chùa Bổ Đà). Đình làng xuất hiện phổ biến ở nhiều làng xã thuộc Việt Yên vào thời Lê khi Nho giáo được khẳng định. Đó vừa là nơi thờ Thành hoàng làng, tổ chức lễ hội vừa là nơi hội họp của dân làng. Đình Đông là một ngôi đình cổ được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỉ XVIII), thờ Đức thánh Trương Hống, Trương Hát, Hoàng Hoa Thám. Đình Đông là 1 trong 23 điểm nằm trong hệ thống di tích lịch sử những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế. Đình Thổ Hà thuộc làng Thổ Hà, xã Vân Hà cũng là ngôi đình có kiến trúc nghệ thuật độc đáo, chạm khắc tinh xảo được xây dựng từ thế kỉ XVII với những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật nổi tiếng, các chủ đề trang trí phong phú tập trung vào các chủ đề “tứ linh”, “tứ quý” và tiêu biểu, độc đáo là tạo ra những hình ảnh về con người và thế giới động vật tự nhiên, kết hợp với nhau tạo thành các mảng điêu khắc có giá trị. Từ năm 1964 trở đi, đình Thổ Hà được Nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc – nghệ thuật cấp Quốc gia và từ năm 2007, đình nằm trong 7 điểm của hành trình văn hóa Việt Nam – Bỉ. Chùa Bổ Đà (còn được gọi là chùa Bổ, chùa Tam Giáo) là một trong những ngôi chùa độc đáo nhất miền đất Kinh Bắc, trung tâm Phật giáo lớn của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Dấu vết vật chất và thư tịch còn lại ở chùa cho thấy chùa có từ thời nhà Lý thế kỷ XI và được xây dựng lại vào thời Lê Trung Hưng, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1705 – 1728). Chính bởi là một trung tâm Phật giáo lớn như vậy nên ngôi chùa cùng với thắng tích núi Bổ Đà đã có một quá trình dân gian hóa mấy thế kỉ. Quá trình dân gian hóa đó lại được huyền thoại hóa vào trong tên đất, tên núi, tên chùa và vào cả tín ngưỡng dân gian như tục thờ đá của người dân địa phương. Chùa thờ Tam giáo – điều đặc biệt ít có ở các ngôi chùa khác tại Việt Nam. Chùa Bổ Đà là một trong những ngôi chùa còn giữ nguyên bản nét kiến trúc truyền thống Việt cổ. Chùa có lối kiến trúc “nội thông ngoại bế” độc đáo, khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam. Đặc biệt, vườn tháp chùa Bổ Đà được đánh giá là vườn tháp đẹp và lớn nhất Việt Nam. Chùa hiện tại còn lưu giữ được rất nhiều tư liệu quý hiếm về thời kỳ Phật giáo phát triển rực rỡ tại Việt Nam qua gần 2.000 bộ mộc bản được khắc vào năm 1740 – đời vua Lê Cảnh Hưng. Bộ Mộc bản Kinh Phật của chùa Bổ Đà là một trong những bộ kinh của Thiền phái Lâm Tế khắc trên gỗ thị cổ nhất Việt Nam. Ngày 30/4/2017, Liên minh Kỷ lục thế giới (Worldkings) đã xác lập kỷ lục bộ Mộc bản Kinh Phật của chùa Bổ Đà là bộ Mộc bản Kinh Phật khắc trên gỗ thị của Thiền phái Lâm Tế cổ nhất thế giới. Những ngôi đình, đền, chùa… với kiến trúc độc đáo, cùng với các pho tượng, các di vật không chỉ có giá trị về mặt văn hóa – nghệ thuật mà còn có ý nghĩa lịch sử quan trọng, phần nào phản ánh trình độ kinh tế, đời sống văn hóa đương thời, minh chứng trí thông minh, lòng dũng cảm, tình yêu quê hương, đất nước của nhân dân Việt Yên bao thế hệ. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện bản sắc dân tộc và ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người dân. Là vùng chuyển tiếp về địa – văn hóa và địa bàn cộng cư của nhiều dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam nên Việt Yên cũng là nơi sản sinh, lưu truyền nhiều di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc như: các lễ hội, làng nghề thủ công, tri thức dân gian, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống và các loại hình di sản văn hóa khác. Người Việt Yên có nhiều phong tục cổ truyền độc đáo, thể hiện trong nhiều lễ hội. Vật cầu trong lễ hội gồm có vật cầu cạn và vật cầu nước. Vật cầu cạn ở làng Cao Lôi (xã Ninh Sơn), làng Mai Thượng (xã Hương Mai). Vật cầu nước duy nhất có ở làng Vân (xã Vân Hà). Lễ hội vật cầu được mở ra ngoài ý nghĩa tưởng nhớ đến Đức Thánh Tam Giang còn có ý nghĩa cầu mong một năm mùa màng tươi tốt, phong đăng hòa cốc, dân an vật thịnh, biểu dương tinh thần thượng võ của dân làng. Tục kéo trâu nghè ở tứ đình Nội (gồm Phúc Ninh, Mai Vũ, Ninh Động, Nội Ninh); tục kéo chữ “Thiên hạ thái bình, Quốc thái dân an” ở hội làng Yên Ninh (thị trấn Nếnh). Làng Kép (xã Việt Tiến) có hội săn cầy: “Làng Kép có hội săn cầy/Săn đi, săn lại cả ngày chẳng tha”.
Việt Yên là vùng đất có nhiều di tích lịch sử – văn hóa có giá trị, do đó, cũng là vùng đất của rất nhiều lễ hội. Thống kê đến nay, toàn huyện có 128 lễ hội, trong đó có 1 lễ hội cấp huyện tổ chức, 5 lễ hội cấp xã tổ chức và 122 lễ hội do các thôn tổ chức, chủ yếu là hội làng với các loại hình hội như hội đình, hội đền, hội chùa của các làng, xã. Hội chùa nổi tiếng trong vùng là lễ hội chùa Bổ Đà (xã Tiên Sơn) diễn ra từ 16 – 18 tháng Hai (Âm lịch). Hội đình, đền tiêu biểu có hội đình Thổ Hà (xã Vân Hà) diễn ra từ ngày 20 – 22 tháng Hai (Âm lịch). Lễ hội Thổ Hà được đánh giá là lễ hội quy chuẩn và độc đáo nhất trên đất Bắc Giang hiện nay. Lễ hội làng Thổ Hà lớn về quy mô so với các lễ hội hàng xã, chuẩn về nghi thức, nghi lễ, đa dạng về nội dung, hình thức. Phong tục thờ cúng Thành hoàng làng trong mỗi lễ hội ở từng làng xã đều có những nét riêng biệt, độc đáo. Trong các lễ hội thường diễn ra những trò chơi dân gian như: đấu vật, cờ tướng, đánh đu, chọi gà, cướp cầu, hát quan họ, diễn tuồng, chèo, hát ví, trống quân… Đối với các làng kết chạ thì hội làng còn là dịp để đón rước “chạ anh” một cách trọng thị nhất, giúp cho mối quan hệ ngày càng gắn bó, bền chặt. Kết chạ là một trong những phong tục đẹp thể hiện tinh thần đoàn kết, trân trọng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các làng xã từ xưa đến nay còn tiếp tục được duy trì như làng quan họ Thổ Hà kết chạ với làng quan họ Viêm Xá (xã Hòa Long, huyện Yên Phong), làng Phúc Lâm kết chạ với làng Nam Ngạn… Cho đến nay, lễ hội chùa Bổ Đà và lễ hội thôn Thổ Hà đã được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia.
Đặc biệt, huyện Việt Yên còn bảo tồn và phát huy được hai giá trị di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu là ca trù và dân ca quan họ. Di sản văn hóa ca trù được lưu giữ trên tấm bia đá có niên đại từ năm 1693 tại đình Thổ Hà, xã Vân Hà. Theo các nhà nghiên cứu, tấm bia đá này ghi về việc đổi lệ hát ca trù ở Thổ Hà. Qua tấm bia này cho thấy lệ hát ca trù ở Thổ Hà đã có từ lâu đời. Đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, lệ hát ca trù ở đình và ở lễ hội Thổ Hà vẫn được duy trì. Sau Cách mạng, ca trù suy giảm dần rồi mất hẳn nhưng ở làng Thổ Hà vẫn còn nhà thờ tổ truyền nghề. Trong khám thờ còn lưu giữ 3 pho tượng, ngồi giữa là đàn bà, hai bên là đồng tử. Theo dân gian, người đàn bà là ca nương – tổ nghề hát ca trù ở Thổ Hà, còn hai đồng tử là hai hoàng tử nhà Lý. Di sản văn hóa phi vật thể ca trù được
UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp vào ngày 1/10/2009. Nhằm tôn vinh, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ca trù, Việt Yên đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, đặc biệt, huyện đã thành lập được 1 câu lạc bộ ca trù cấp huyện.
Dân ca quan họ là một loại hình nghệ thuật độc đáo với hàng trăm điệu, ngàn lời, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2009. Người Việt Yên xưa nay vẫn “ăn quan họ, ngủ quan họ”. Hiện nay, toàn huyện có 18 làng quan họ được UNESCO công nhận, đưa vào danh sách bảo tồn và phát triển di sản văn hóa, trong đó có 5 làng quan họ cổ (Hữu Nghi, Nội Ninh, Mai Vũ, Giá Sơn, Sen Hồ), 125 làng quan họ thực hành, nằm dọc theo bờ Bắc sông Cầu huyền thoại và lịch sử, có 108 câu lạc bộ hát quan họ với hơn 1.800 thành viên. Toàn huyện có 2 nghệ nhân nhân dân, 13 nghệ nhân ưu tú (11 nghệ nhân quan họ, 2 nghệ nhân tuồng cổ, 1 nghệ nhân chèo, 1 nghệ nhân đàn nhị). Quan họ ở Việt Yên có từ lâu đời, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhiều nghệ nhân vẫn lưu giữ được các bài quan họ cổ và những sinh hoạt quan họ truyền thống để tiếp tục trao truyền cho thế hệ trẻ. Dân ca quan họ vừa là nét văn hóa đặc trưng vừa là sợi dây hòa trộn và kết nối các di sản, tạo nên dấu ấn riêng của mỗi làng quan họ cổ. Mỗi làng quan họ ở Việt Yên lại có nét đặc sắc riêng. Trong đó, làng Thổ Hà còn giữ được lối hát canh cổ truyền của người quan họ. Làng Trung Đồng, Hữu Nghi… hiện còn nhiều nghệ nhân cao tuổi hát được nhiều giọng quan họ. Dân ca quan họ đã tiếp thu dòng văn chương bác học và dòng văn nghệ dân gian để sinh sôi, phát triển. Hát quan họ là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, một phong tục đẹp của nhân dân. Lời ca quan họ gắn liền với nếp sống sinh hoạt, tập tục, lề lối đã kết tinh tâm hồn, tình cảm và những ước mơ, khát vọng cao đẹp của người dân nơi đây. Hằng năm, vào dịp lễ hội đầu xuân, kết chạ, những lúc nông nhàn, các làng lại tổ chức cuộc thi, hội diễn giao lưu hát quan họ, thu hút đông đảo du khách thập phương. Những “liền anh”, “liền chị” quan họ trong giao tiếp hay ca hát bao giờ cũng thể hiện là người thanh lịch, hào hoa, trọng tình, nặng nghĩa. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của người dân Việt Yên. Hiện nay, dân ca quan họ đã và đang được Đảng bộ, chính quyền, nhân dân huyện Việt Yên quan tâm bảo tồn và phát huy, ngày càng có sức sống mãnh liệt và
sức lan tỏa trong cộng đồng, nhất là tại các làng quan họ cổ – nơi sản sinh, nuôi dưỡng và phát triển quan họ bờ Bắc sông Cầu.
Bên cạnh ca trù và dân ca quan họ, Việt Yên còn có một kho tàng về hát ví, hát trống quân, hát chèo và đặc biệt là hát tuồng trên đất Thổ Hà. Tuồng cổ được diễn trên sông và trong dịp lễ hội (Làng Thổ Hà là làng gốm cổ truyền, hiện là một trong bảy làng nằm trong hành trình văn hóa của Việt Nam và cộng đồng những người nói tiếng Pháp thuộc Cộng hòa Bỉ. Làng Thổ Hà còn là làng có truyền thống hát tuồng, hát ca trù và hát quan họ).
Kho tàng văn hóa văn nghệ dân gian giàu có, phong phú ở Việt Yên còn có thần thoại (như huyền tích về Thạch Tướng quân ở Tiên Lát, về thần lửa hóa thân vào Lão Tử ở Thổ Hà); lối nói khoa trương ở Mật Ninh, Cao Lôi…; giai thoại văn học tập trung ca ngợi tài thông minh mẫn tiệp, sự ứng đối nhạy bén của các danh nhân Việt Yên như Thân Nhân Trung, Nguyễn Danh Vọng… Kho tàng ca dao, tục ngữ của nhân dân Việt Yên cũng hết sức phong phú, phản ánh khá đầy đủ các mặt sinh hoạt, kinh tế – xã hội, đất nước, con người địa phương, thể hiện tính cách riêng biệt của vùng đất và con người Việt Yên. Nhiều câu phương ngôn vừa thể hiện trí tuệ sắc sảo vừa thể hiện phong tục tập quán đã được lưu truyền từ xưa như:
“Cồng Quang Biểu, kiệu Thổ Hà”.